TANG LỄ
Ba ngày sau, chúng tôi tổ chức tang lễ cho bà. Chúng tôi biết rằng sẽ có rất đông người đến viếng. Nhưng chúng tôi sững sờ khi có gần hai nghìn người Anh Điêng đến nói lời vĩnh biệt.
Và không một ai chửi bới tôi cả.
Thực ra là, tôi vẫn là một thằng nhóc đã phản bội cả bộ lạc. Và chuyện đó không thể được tha thứ. Tất cả mọi người đều biết rằng mất đi bà tôi là một việc rất kinh khủng. Vì vậy, họ đều vẫy cờ trắng vào ngày hôm đó và mặc cho tôi than khóc trong yên bình.
Sau đó, họ không còn quấy nhiễu tôi những khi trông thấy tôi ở khu Anh Điêng nữa. Ý tôi là, tôi vẫn sống ở khu Anh Điêng, phải không? Tôi vẫn phải đi lấy thư, ra chợ lấy sữa và vẫn đi chơi, phải không? Vậy tức là tôi vẫn còn là một phần của khu Anh Điêng.
Mọi người đã từng lờ tôi đi hoặc chửi bới hoặc xô đẩy tôi.
Nhưng họ không làm thế nữa sau khi bà tôi mất. Tôi chắc họ nhận ra rằng tôi đã chịu đủ đau đớn rồi. Hoặc có lẽ họ đã nhận ra mình là những tên khốn tàn nhẫn.
Tất nhiên, không phải bỗng dưng tôi được mọi người yêu mến. Nhưng tôi cũng không còn là một là kẻ ác nữa.
Mặc cho bất kì chuyện gì đã xảy ra giữa tôi và bộ lạc, tôi sẽ vẫn mãi yêu quý họ vì đã để tôi yên trong tang lễ của bà tôi.
Kể cả Rowdy cũng chỉ đứng thật xa.
Cậu sẽ mãi là bạn thân của tôi, mặc dù có ghét tôi đến thế nào đi chăng nữa.
Chúng tôi đã phải khiêng quan tài ra khỏi Nhà Dài của Bộ tộc Spokane và đặt nó ở vạch kẻ bốn-lăm-mét trên sân bóng bầu dục.
Chúng tôi gặp may vì trời đẹp.
Đúng vậy, khoảng hai ngàn người Anh Điêng (và một vài người da trắng) người ngồi, kẻ đứng trên sân bóng bầu dục để chúng tôi nói lời chào tạm biệt với người Anh Điêng Spokane vĩ đại nhất trong lịch sử.
Tôi biết bà tôi sẽ thích cuộc tiễn đưa đó.
Nó thật điên rồ, vừa vui lại vừa buồn. Chị gái tôi không đến được lễ tang. Đó là điều tồi tệ nhất. Chị không có đủ tiền để quay lại, tôi đoán thế. Điều đó thật đáng buồn. Nhưng chị đã hứa với tôi rằng sẽ hát một trăm bài khóc bà vào ngày hôm đó.
Chúng tôi đều phải tự tìm cách riêng của mình để chia tay bà.
Một đống người để chuyện về bà tôi.
Nhưng có một câu chuyện duy nhất thật sự quan trọng.
Khoảng mười tiếng sau khi phát tang, có một người da trắng đứng dậy. Ông ta là người lạ. Trông hơi quen quen. Tôi biết đã từng nhìn thấy ông ta ở đâu rồi, nhưng không tài nào nhớ ra là ở đâu. Tất cả chúng tôi đều tự hỏi chính xác thì ông ta là ai. Nhưng không một ai biết. Điều đó không có gì ngạc nhiên. Bà tôi đã từng gặp hàng ngàn người.
Người đàn ông da trắng đó đang cầm một chiếc va li lớn.
Lúc nói, ông ta cầm vật đó sát vào ngực.
“ Xin chào,” ông ta nói. “ Tôi tên là Ted.”
Rồi tôi nhớ ra ông ta là ai. Đó là tỷ phú vô cùng giàu có và nổi tiếng. Ông nổi tiếng vì giàu kếch xù và vô cùng lập dị.
Bà tôi quen tỷ phú Ted!
Chà.
Tất cả chúng tôi đều hào hứng muốn nghe câu chuyện của ông ta. Vậy ông ta muốn nói gì đây?
Chúng tôi ai nấy đều rên lên.
Chúng tôi chắc mẩm gã da trắng này thật là lập dị. Nhưng ông ta cũng chỉ là một gã da trắng xuất hiện trên khu Anh Điêng bởi vì ông ta QUÁÁÁÁÁ yêu mến người Anh Điêng.
Bạn có biết mỗi năm có bao nhiêu người da trắng lạ mặt xuất hiện ở các khu Anh Điêng và nói rằng họ yêu mến người Anh Điêng đến mức nào không?
Hàng ngàn người.
Điều đó thật kinh tởm.
“ Nghe này,” Ted nói. “ Tôi biết các bạn đã từng nghe mấy thứ đó rồi. Tôi biết người da trắng vẫn nói thế suốt. Nhưng tôi vẫn cần phải nói điều này. Tôi yêu người Anh Điêng. Tôi yêu những bài hát, những điệu nhảy, yêu cả tâm hồn của các bạn. Tôi cũng yêu mến nghệ thuật của các bạn. Tôi sưu tập các tác phẩm của người Anh Điêng.”
Ôi, trời, ông ta là một nhà sưu tập. Những gã sưu tập khiến người Anh Điêng cảm thấy mình như những con côn trùng bị ghim chặt lên mấy tấm bảng triển lãm. Tôi nhìn quanh sân bóng. Đúng thế, tất cả các anh chị em họ của tôi đều đang quằn quại như những con bọ cánh cứng và bươm bướm bị ghim phập vào tim.
“ Tôi đã sưu tập các tác phẩm của người Anh Điêng hàng thập kỷ rồi,” Ted nói. “ Tôi có những ngọn giáo cũ. Những đầu mũi tên cũ. Tôi có bộ áo giáp sắt cũ. Những cái chăn. Những bức tranh. Những bức tượng. Những cái rổ. Và đồ trang sức nữa.”
Vân vân, vân vân và vân vân.
“ Và tôi có cả trang phục nhảy hội tế lễ cũ,” ông ta nói.
Chuyện đó khiến tất cả mọi người ngồi thẳng dậy và chú ý lắng nghe.
“ Khoảng mười năm trước, một người Anh Điêng gõ cửa túp lều của tôi ở Montana.”
Túp lều cái con khỉ. Ted sống trong một căn biệt thự bốn mươi phòng ở ngay rìa Bozeman.”
“ Tôi không quen người đó,” Ted nói. “ Nhưng tôi luôn mở rộng cửa chào đón người Anh Điêng.”
Ôi trời ạ.
“ Và người Anh Điêng lạ mặt đặc biệt đó đang cầm trên tay một bộ trang phục nhảy tế lễ tuyệt đẹp, một bộ trang phục nhảy tế lễ của phụ nữ. Đó là thứ đẹp nhất tôi từng nhìn thấy. Toàn thân đính những chuỗi hạt xanh biển, đỏ, vàng cùng với hoa văn hình con chim sấm.(1). Nó phải nặng hơn hai mươi cân. Và tôi không thể tưởng tượng nổi có người phụ nữ nào mà lại khỏe đến mức nhảy được bên trong cái gánh nặng kỳ diệu kia.”
Người phụ nữ nào trên đời mà chả nhảy được như thế.
“ Rồi thì người Anh Điêng lạ mặt đó gã đang lâm vào đường cùng. Vợ gã sắp chết vì bệnh ung thư nên gã cần tiền để chi trả cho thuốc thang. Tôi biết gã đang nói dối.Tôi biết gã đã ăn cắp bộ trang phục đó. Bao giờ tôi cũng đánh hơi ra một tên trộm.”
Đánh hơi mình đi, Ted.
“ Và tôi biết nên gọi cảnh sát bắt tên trộm này. Tôi biết nên lấy bộ trang phục đó rồi tìm người chủ thực sự sau. Nhưng nó quá đẹp, quá hoàn mỹ đến mức tôi đưa cho gã Anh Điêng lạ mặt đó một nghìn đô và mặc cho gã đi. Còn tôi giữ lấy bộ trang phục ấy.”
Ồ, liệu có phải Ted đến đây để thú tội không? Và tại sao ông ta lại chọn đám tang của bà tôi làm nơi thú tội?
“ Suốt bao năm nay, tôi cảm thấy day dứt lắm. Tôi vẫn ngắm bộ quần áo đó treo trên tường túp lều của tôi ở Montana.”
Căn biệt thự, Ted, đấy là một căn biệt thự. Mạnh dạn lên; ông có thể nói là: CĂN BIỆT THỰ!
“ Sau đó, tôi quyết định tìm hiểu chuyện này. Tôi thuê một nhà nhân loại học, một chuyên gia, và chẳng bao lâu sau ông ta chỉ ra rằng bộ trang phục rõ ràng có nguồn gốc từ Interior Salish. Sau khi thực hiện một cuộc điều tra nhỏ, ông ta phát hiện ra bộ quần áo là của người Anh Điêng Spokane, chính xác là thế. Rồi cách đây vài năm, ông ta ngụy trang đến thăm khu Anh Điêng của các bạn và tìm hiểu được rằng bộ trang phục bị ăn trộm này từng thuộc về một người phụ nữ tên là Cụ Spirit.”
Tất cả chúng tôi đều há hốc miệng. Đây là một cú sốc lớn. Tôi tự hỏi có phải tất cả chúng tôi đang góp phần vào một chương trình thực tế điên rồ nào đó có tênKhi những tên tỷ phú giả vờ làm người. Tôi nhìn xung quanh tìm kiếm những chiếc máy quay.
“ Kể từ lúc biết được ai là người chủ thực sự của bộ trang phục này, tôi cứ bứt rứt mãi. Lúc nào tôi cũng muốn đem trả, nhưng lại cũng muốn giữ làm của riêng. Tôi đã mất ngủ nhiều đêm vì bị chuyện này giày vò.”
Đúng vậy, kể cả các tỷ phú cũng có NHỮNG ĐÊM TÂM HỒN ÂM U.
“ Cuối cùng, tôi không chịu nổi nữa. Tôi gói bộ quần áo lại rồi đi đến khu Anh Điêng của các bạn, nơi này đây, để đưa tận tay chỉ để biết được là bà đã bước sang thế giới bên kia. Điều đó thật đau lòng.”
Tất cả chúng tôi im lặng như tờ. Đây là chuyện quái dị nhất chúng tôi từng chứng kiến. Chúng tôi là người Anh Điêng, nên tin tôi đi, chúng tôi đã chứng kiến một số chuyện cực kì quái dị rồi.
“ Nhưng tôi có bộ trang phục ấy ở đây.” Ted nói. Ông ta mở chiếc va li của mình, lấy bộ trang phục ra rồi giơ cao lên. Nó nặng hơn hai mươi cân, vì vậy ông ta phải đánh vật mãi mới nhấc lên được. Có là ai thì cũng phải đánh vật mãi mới nhấc lên được.
“ Vì thế nếu có người con nào của Cụ Spirit đang ở đây, tôi mong được trả lại bộ trang phục của bà cho họ.”
Mẹ tôi đứng dậy, đi về phía Ted.
“ Tôi là con gái duy nhất của Cụ Spirit.” bà nói.
Giọng mẹ tôi trở lên rất nghiêm trang. Người Anh Điêng cực giỏi trong việc đó. Chúng tôi đang nói cười và cư xử như bình thường, và rồi, BÙM, chúng tôi tỏ ra nghiêm túc, long trọng và bắt đầu nói chuyện như một hoàng thân Anh nào đó.
“ Người con gái đáng mến,” Ted nói. “ Sau đây, tôi xin được trả bà món đồ đã bị ăn trộm. Tôi hy vọng bà sẽ tha thứ cho tôi vì đã đem trả lại quá chậm trễ.”
“ Thực ra thì cũng không có gì để mà tha thứ, Ted ạ,” mẹ tôi nói. “Cụ Spirit không phải là một vũ nữ tế lễ.”
Mồm của Ted há hốc.
“ Ý bà là,” ông ta nói.
“ Mẹ tôi rất thích đến những hội tế lễ. Nhưng bà không bao giờ nhảy cả. Bà cũng chưa từng sở hữu một bộ trang phục nhảy nào. Cái này không thể là của bà được.”
Ted không nói gì cả. Ông ta không thốt nổi một từ.
“ Thực tế là, nhìn vào những chuỗi hạt và hoa văn, bộ trang phục này trông chẳng có vẻ gì là của người Spokane cả. Tôi không biết cách thêu thùa. Có ai ở đây nhận ra những đường thêu này hay không?”
“ Không,” tất cả mọi người đồng thanh.
“ Trong nó giống của người Sioux hơn,” mẹ tôi nói.
“ Hoặc giả là của người Oglala. Có thế thôi. Tôi không phải chuyên gia. Nhà nhân loại học của ông xem ra cũng không phải chuyên gia nốt. Lần này ông ta sai bét.”
Chúng tôi đều im lặng ngồi đó trong lúc Ted đứng ngẫm nghĩ về chuyện này.
Sau đó, ông ta gói bộ trang phục của mình lại trong va li, rảo bước nhanh về phía chiếc xe đang chờ, rồi phóng thẳng đi.
Trong vòng khoảng hai phút, chúng tôi đều im thin thít. Ai mà biết phải nói cái gì? Sau đó, mẹ tôi bắt đâu cười.
Và thế là chúng tôi cũng rào rào cười.
Hai nghìn người Anh Điêng cười cùng một lúc.
Chúng tôi cứ cười mãi.
Đó là âm thanh huy hoàng nhất tôi từng nghe thấy.
Tôi nhận ra rằng, đúng, người Anh Điêng luôn say xỉn, đáng thương, lộn xộn, điên dại và xấu tính, nhưng, chết tiệt, chúng tôi biết cách cười ra trò.
Khi nhắc đến cái chết, chúng tôi biết rằng tiếng cười hay nước mắt đều như nhau cả thôi.
Vì thế, vừa cười vừa khóc, chúng tôi từ biệt bà tôi. Khi nói lời chia tay với một người bà cũng là lúc chúng tôi nói lời chia tay với tất cả những người khác.
Mỗi đám tang là một đám tang cho tất cả chúng tôi.
Chúng tôi sống và chết bên nhau.
Tất cả chúng tôi cười khi họ hạ dần bà tôi xuống đất.
Tất cả chúng tôi cười khi họ phủ đất lên người bà.
Và tất cả chúng tôi cười lúc đi bộ, hay lái xe hay cười ngựa trên đường về căn nhà hết sức cô độc về căn nhà hết sức cô độc của mình.